Gia ách 32 năm sống giữa rừng sâu -32 nam mà trong rung| Tin
Túp lều giữa đại ngàn
“Căn nhà” của A Sáng nằm lọt thỏm giữa rừng già huyện Bắc Bình, giáp giới với tiểu khu 22 rừng phòng hộ Tuy Phong, ở độ cao gần 800 m so với mặt biển, muốn đến được phải mất một ngày luồn rừng. Từ cửa rừng ở xã Phan Dũng (huyện Tuy Phong), đến đây phải leo qua năm ngọn núi, luồn lách qua những khu rừng già với vách bần tiện đầy rêu.
Túp lều được dựng bằng thân tre, trên phủ bạt. Bốn đứa trẻ nép vào tấm cửa đan văn bằng phên tre nhìn khách lạ lẫm. Tất cả chúng đều nhỏ con và hơi khờ khạo. Anh Nguyễn Đẩu, người dân xã Phong Phú (huyện Tuy Phong) dẫn đường cho chúng tôi nói rằng tiền mới đây thôi, mỗi lần có người lạ là chúng lại chạy vào rừng để trốn.
Không giao tiếp, không học hành, vớ cả những gì về thế giới bên ngoài là vài người dân đi làm dầu rái thi thoảng ghé qua xin nước uống. Hai đứa lớn mỗi tháng một lần cõng mặc dầu rái xuống núi, tại cửa rừng nơi gia tộc có thể bán dù rằng và nhận lại lương bổng thực. Bầu bạn của chúng là một con mèo và hai con chó, trong đó một con bị cụt chân vì chưng vướng bẫy.
A Sáng tên thật là Gịp A Dưỡng, người thôn Hải Thủy, xã Hải Ninh, huyện Bắc Bình, Bình Thuận. Anh 50 tuổi nhưng đã có 32 năm sống giữa rừng. Nhà nghèo, từ nhỏ A Sáng đã lên rừng làm dù rái (lấy nhựa thông) về bán. Rừng xa, ban đầu mỗi tuần anh về nhà một lần, rồi nửa tháng, rồi có khi ở hẳn nhiều tháng không về, đồng cân xuống bãi bán dù rằng rồi lại trở lên. Từ năm 1982, anh ở lại hẳn trong rừng.
Cuộc đời buồn
Rồi A Sáng thương một cô gái đi gánh mặc dầu rái thuê trên rừng. Họ dắt díu nhau về quê nhà Hải Ninh, sống chung trong căn nhà trống trước dột sau với vợ chồng anh trai và có một đứa con là Gịp A Moi. A Sáng vẫn lên rừng, mỗi tháng về đôi lần gửi đồng cân bán mặc dù rái cho vợ đong gạo. Mấy năm sau, người vợ mắc bệnh rồi qua đời. Từ đó A Sáng ở hẳn trong rừng sâu, không có ai bè bạn ngoài một con khỉ. thi thoảng anh mới có thời cơ nói chuyện khi gặp vài người đi làm dầu rái trên núi cao cách đó nửa ngày đường.
Ngày nọ, cô gái Nguyễn Thị Quảng từ xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong lên gánh mặc dù thuê. họ quen nhau rồi về ở cùng nhau. A Sáng đón đứa con của người vợ đầu, lúc này chừng năm, sáu tuổi, lên núi ở cùng.
A Sáng biết tí đỉnh nghề thuốc Nam học từ mẹ và biết đỡ đẻ bởi vì hồi nhỏ mẹ đâm ra mấy đứa em, bà mụ sai anh đi mua thuốc và phụ đỡ đẻ. Khi chị Quảng mang bầu, núi cao không đưa vợ về xuôi sinh nở được, anh làm bà đỡ cho vợ mình. Vợ hoá xong, anh tắm rửa cho con, hút đờm dãi trong miệng nó để lớn lên nó khỏi bị hen. Họ có đứa con thứ hai là bé gái Gịp A Nhì như thế.
Mỗi ngày A Sáng lại ra khấn thần rừng xin bình phẩm yên cho con cái.
Rồi vợ lại mang bầu, A Sáng lại đỡ đẻ. Được hơn một tuổi thì thằng bé bị sốt. Hôm đó mưa trắng rừng, không cách gì có thể đưa đứa bé đang sốt hập băng nhóm qua bảy ngọn núi với những khe suối lũ đang gào thét và những vách đá bày đặt đầy rêu để về bệnh viện. Những bài thuốc Nam không ngăn giúp đứa bé dễ thở hơn. Nó chết trên tay A Sáng.
Vợ lại mang bầu, A Sáng lại luồn rừng về mua thuốc và đỡ cho vợ. Nhưng đứa bé bị nhau thai quấn cổ và chị Quảng, vợ anh, cũng tắt hơi bởi băng nhóm huyết khi sinh. Cũng như đứa con trước đó, gia tộc tắt nghỉ trong một chiều mưa giăng trắng rừng già.
A Sáng dắt díu hai đứa con Gịp A Moi và Gịp A Nhì tìm một ngọn núi cao hơn, dựng lều gần nơi anh lấy dù rằng rái để tiện chăm con và làm dầu. Đó là một ngày mùa khô 17 năm trước.
Cái nghèo đeo đẳng
Chị Quảng có một người em gái tên Nguyễn Thị Lâm Tuyền, nghèo như chị và cũng đi gánh dù rằng thuê như chị. Mỗi khi lên rừng, cô lại mang theo khi cái áo, lúc ký thịt, hũ mắm cho cháu, bịch thuốc rê cho anh rể. Những người bạn đi rừng khuyên cô: “Mày cũng gần ba mươi rồi. Thôi thì mày lấy A Sáng rồi chăm hai đứa nhỏ”.
Không nói ra thì từ lâu cô cũng đã chăm hai đứa con của Sáng như người mẹ thứ hai. Đến khi A Sáng ngỏ lời: “Cô về đây ở với anh lo cho thằng A Moi và con bé A Nhì!” thì cô im lặng. Họ thành vợ chồng từ đó. Túp lều giữa rừng được thay tấm bạt mới, A Sáng xẻ một cây gỗ giả bộ ván cho hai đứa con, vách lều được nới rộng và ngăn ra. Thêm một ngày đốn tre và đục đẽo, A Sáng chỉ tay vào cái giường tre mới đóng: Anh với em ngủ chỗ này.
Rồi chị Tuyền mang bầu, đương nhiên vẫn chẳng thể leo núi về trạm xá. A Sáng lại làm cô đỡ trong những ngày mưa rừng gió núi. Anh ra gốc cây to nhất sau lều, lập bàn thờ và khấn thần núi thần rừng: “Xin ông bà cô cậu phù trợ cho vợ con sanh đứa bé thẳng tay mạnh chưn”. Bốn đứa con: Gịp Sám Tày, Gịp A Long, Gịp A Dậu và Gịp Linh Chi nối nhau ra đời. Túp lều đỡ cô quạnh hơn nhưng cuộc sống khó khăn hơn. Lều chật, sáu đứa con vẫn ngủ trên ván, thằng em gối đầu lên bụng thằng anh, thằng bé vắt chân lên cổ thằng lớn.
Mơ ước một căn nhà
20 tuổi, thằng con lớn Gịp A Moi một bữa nói với cha: “Ở rừng tội quá, con muốn về làng!”. Nhưng chỉ đâu mà cất nhà? Xa rừng biết sống bằng gì? Mảnh đất ba má để lại, người anh trai ở phần trước, phần sau vẫn dành cho A Sáng. 30 năm nay, chưa khi nào A Sáng nguôi nỗi khát khao có một mái nhà trên đó. Nhưng làm ngày nào ăn ngày ấy còn chưa đủ, hai vợ chồng với một bầy con sáu đứa mỗi ngày ăn gần 7 kg gạo, mỗi bữa nấu bảy lon, thực phẩm tiền có rau rừng, thú nhỏ bẫy được, vậy mà còn đói. Ước mộng về một ngôi nhà ở làng để đưa vợ con về cứ mãi xa vời.
Bữa cơm chiều của gia đình A Sáng.
Nghĩ đến bầy con thất học, không có dịp giao tiếp với bên ngoài, cứ cặm cụi kiếm ăn trong rừng sâu núi thẳm, nhiều đêm anh muốn khóc. Anh nghĩ: Đời mình đã thế, đời chúng nó rồi cũng lại cắm mặt vào rừng làm mặc dầu đổi gạo, khác gì muông thú?
Một buổi, thằng Gịp A Moi mang mặc dầu rái xuống bãi và không trở lên rừng nữa. Nó nhắn một người thợ rừng là xuống Liên Hương làm thuê. Con bé Gịp A Nhì thay anh gánh dù xuống núi rồi cũng không trở lên nữa, nó xuống ở với anh trai, cũng đi làm thuê.
Giờ, thằng bé Gịp Sám Tày, 16 tuổi và thằng Gịp A Long lên 10 lại thay anh chị nó gánh dù rằng xuống bãi. Hai thằng nhỏ vác can dù mấy chục ký luồn rừng leo dốc như con khỉ, những con dốc mà chúng tôi bở hơi tai hai ba bận mới leo tới đỉnh.
Những đứa trẻ ấy đồng cân muốn được về sống ở làng như bao đứa trẻ phẩm bình thường. Bố mẹ chúng cũng đồng cân muốn có một cái nhà ở làng như người bình thường, đau yếu hay hoá nở được đến bệnh viện, không phải đẻ trong rừng và tắt hơi trong rừng như người vợ và hai đứa con trước. A Sáng đã thức nhiều đêm đến khi gà rừng gáy sáng bởi vì câu hỏi của vợ con: “Khi nào mình được về làng?”.
Ở tuổi ngoài 50, chân đã mỏi sau gần 40 năm lội rừng, anh không có nhiều thời kì và cơ hội.
A Sáng hát rất hay nhưng ở rừng từ năm 18 tuổi cho nên đến giờ anh vẫn tiền thuộc những bài nhạc vàng từ 40 năm trước. Say say anh vẫn nghêu ngao “nhà em có hoa vàng trước ngõ”.